Nhiều người cho rằng đột quỵ chỉ xảy ra ở người lớn tuổi nhưng thực tế đột quỵ cũng có !important; thể xảy ra ở cả trẻ em. Chính vì vậy, đột quỵ ở trẻ em thường được phát hiện và điều trị muộn.
Đừng nghĩ trẻ em không đột quỵ
Mới đây, bệnh nhi T.N.M.C. (13 tuổi, ngụ tại phường 5, TP Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu) nhập bệnh viện ở TP Cần Thơ với tình trạng yếu nửa người trái, đặc biệt bàn tay trái gần như mất hoàn toàn chức năng.
Theo thông tin từ người nhà cháu C, hơn hai tháng trước đó, cháu hoàn toàn khỏe mạnh, sinh hoạt bình thường. Tuy nhiên, vào một buổi chiều, bất ngờ cháu C. thấy chóng mặt trong lúc đi tắm. Gia đình lập tức đưa cháu đến bệnh viện ở TP Cần Thơ khám và điều trị. Các bác sĩ chẩn đoán cháu C. bị đột quỵ nhồi máu não cấp không rõ nguyên nhân.
Trước đó bệnh viện Nhi Trung ương cũng tiếp nhận bệnh nhi 8 tuổi ở Cẩm Khê, Phú Thọ vào nhập viện trong tình trạng co giật và được chẩn đoán nhồi máu não không rõ nguyên nhân – liệt dây thần kinh số 7 ngoại biên phải. Theo mẹ cháu bé kể lại, cháu khỏe mạnh, đi học và sinh hoạt bình thường, nhưng sau khi tắm vào buổi chiều tối xong, cháu có biểu hiện không thể tự mặc quần áo và xuất hiện co giật. Ngay lập tức cháu được sơ cứu ban đầu tại Trung tâm Y tế huyện trước khi chuyển thẳng xuống Bệnh viện Nhi Trung ương.
Nhận biết đột quỵ ở trẻ em
Khi được hỏi, nhiều cha mẹ không tin nổi trẻ bị đột quỵ, bởi đơn giản chỉ nghĩ trẻ bị trúng gió, bị cảm…
Đột quỵ ở trẻ em không phổ biến nhưng trên thực tế vẫn xảy ra. Chính vì điều này khiến nhiều trẻ nhập viện muộn.
Theo Hiệp hội Đột quỵ Mỹ, đột quỵ ở trẻ em ngoài phân loại theo xuất huyết, nhồi máu như đột quỵ người lớn, còn phân loại theo tuổi. Đột quỵ xảy ra từ 28 tuần thai đến 28 ngày sau sinh gọi là đột quỵ chu sinh, từ 28 ngày sau sinh đến 18 tuổi gọi là đột quỵ trẻ em.
Đột quỵ chu sinh có các yếu tố nguy cơ từ con và từ người mẹ. Các yếu tố nguy cơ từ con bao gồm bệnh tim bẩm sinh, rối loạn đông máu, nhiễm trùng, chấn thương khi sinh, ngạt khi sinh. Nguy cơ từ mẹ gồm có: Sinh con so, tiền căn vô sinh, nhiễm trùng ối, thiểu ối, vỡ ối sớm, phải hỗ trợ hút khi sinh, phải sinh mổ cấp cứu, tiền sản giật, rối loạn đông máu. Càng nhiều yếu tố nguy cơ thì nguy cơ đột quỵ chu sinh càng cao.
Đột quỵ chu sinh khó nhận biết do lâm sàng khó nhận định. Khi chẩn đoán được thì điều trị chủ yếu là nâng đỡ và tìm yếu tố nguy cơ để điều chỉnh. Các phương pháp điều trị đột quỵ cấp ở người lớn như: Thuốc tiêu sợi huyết hay can thiệp tái thông động mạch chưa có bằng chứng hiệu quả trên nhóm này.
Đột quỵ trẻ em (từ 28 ngày đến 18 tuổi) có triệu chứng tương tự đột quỵ người lớn như:
- Tê !important; liệt, yếu, mất phối hợp ở các chi, đặc biệt là ở một bên.
- Khó !important; khăn trong việc nói, đọc, hiểu, viết hoặc tập trung.
- Lơ mơ, mờ hoặc mất hẳn thị lực, đặc biệt là !important; một bên mắt.
- Co giật, mất ý !important; thức trong thời gian ngắn.
- Chó !important;ng mặt, mất thăng bằng hoặc cơ thể không vận động theo ý muốn.
- Khó !important; nuốt, bao gồm chảy nước dãi.
- Đau đầu dữ dội hoặc đừ người, nô !important;n ói nhiều lần.
Tuy nhiê !important;n, nếu ở trẻ nhỏ chưa biết chia sẻ thì những dấu hiệu này rất khó có thể nhận ra. Hoặc do trẻ còn quá nhỏ, chưa biết đi, chưa biết kêu đau.
Trên thực tế ghi nhận, đã có trẻ bị đột quỵ không có biểu hiện rõ ràng mà chỉ đau đầu, nôn trớ, lơ mơ, lừ đừ. Những triệu chứng này rất chung chung và có thể nhầm lẫn với các bệnh lý khác.
Các bệnh lý có thể nhầm lẫn như: Viêm màng não, vì đôi khi trẻ có sốt kèm theo; hay có trường hợp trẻ nhầm lẫn với bệnh động kinh, bởi trẻ có biểu hiện co giật, thậm chí có thể nhầm lẫn với các bệnh lý đường tiêu hóa, do trẻ có nôn trớ. Chính vì lẽ đó, nhiều trẻ thường được phát hiện muộn, không được chữa trị kịp thời.
Lời khuyên thầy thuốc
Do nguyên nhân gây đột quỵ ở trẻ em và trẻ vị thành niên thường khác với người lớn. Vì vậy, thường khó để phòng ngừa do ít gặp và nhiều yếu tố nguy cơ. Khuyến cáo chung cho phòng ngừa bệnh là tìm các yếu tố có nguy cơ để có cách điều trị các bệnh nền phù hợp. Chẳng hạn như điều trị các bệnh lý về đông máu, các bệnh tim bẩm sinh. Đồng thời với việc có một chế độ ăn tốt, các hoạt động thể chất... Ngoài ra, khi trẻ có biểu hiện bất thường như: Chóng mặt, buồn nôn, nôn, đau đầu… cha mẹ cần đưa trẻ tới cơ sở y tế để khám, không được tự ý mua thuốc về điều trị và điều trị theo mách bảo, để tránh nguy hại đến tính mạng.
Có nhiều nguyên nhân gây ra đột quỵ ở trẻ em. Một số yếu tố là do thiếu máu cục bộ hoặc xuất huyết như: Các bệnh về mạch máu như dị dạng động mạch, bóc tách động mạch, hẹp mạch máu não; Các bệnh lý tim mạch; Bệnh hồng cầu hình liềm và các rối loạn đông máu khác…
ThS. BS. Đặng Phúc Đức