1.Một số thô !important;ng tin về Virus Marburg
Virus Marburg là !important; thành viên của họ Filoviridae tương tự như Virus Ebola.
Bệnh do  !important;Virus Marburg (MVD – Marburg virus disease) là một bệnh sốt xuất huyết hiếm gặp nhưng nghiêm trọng ảnh hưởng đến cả người và động vật linh trưởng. MVD lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1967 sau khi bùng phát đồng thời ở Marburg và Frankfurt ở Đức và ở Belgrade, Serbia. Sự bùng phát có liên quan đến công việc trong phòng thí nghiệm sử dụng khỉ xanh châu Phi (Cercopithecus aethiops) nhập khẩu từ Uganda. Dơi Rousettus aegyptiacus được coi là vật chủ tự nhiên của virus Marburg.
Bệnh có !important; tỉ lệ tử vong cao, trung bình 50%, có thể lên đến 88% -100% nhưng cũng có thể thấp hơn nhiều nếu được chăm sóc tốt.
2.Cá !important;c triệu chứng nhận biết bệnh do Virus Marburg gây ra
Virus Marburg lâ !important;y lan qua đường lây truyền từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp (qua da hoặc niêm mạc bị rách) với máu, dịch tiết, cơ quan hoặc các chất dịch cơ thể khác của người bị nhiễm bệnh và với các bề mặt, vật liệu (Ví dụ: giường, quần áo) bị nhiễm các chất dịch này. Ngay cả sau khi người bệnh đã hồi phục, máu hoặc tinh dịch của họ vẫn có thể lây nhiễm trong nhiều tháng sau đó.
Trong giai đoạn đầu của bệnh, chẩn đoá !important;n lâm sàng MVD rất khó phân biệt với nhiều bệnh sốt nhiệt đới khác do các triệu chứng lâm sàng giống nhau. Các bệnh sốt xuất huyết do virus khác cần được loại trừ, bao gồm bệnh do virus Ebola, cũng như bệnh sốt rét, sốt thương hàn, bệnh leptospirosis, nhiễm trùng do rickettsia và bệnh dịch hạch. Phòng thí nghiệm có thể xác nhận bằng các xét nghiệm khác nhau, chẳng hạn như xét nghiệm miễn dịch hấp thụ liên kết với enzyme bắt kháng thể (ELISA), xét nghiệm phát hiện bắt giữ kháng nguyên, xét nghiệm trung hòa huyết thanh, xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR), kính hiển vi điện tử và virus phân lập bằng nuôi cấy tế bào.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), thời gian ủ bệnh Marburg là !important; từ 2 ngày đến 3 tuần. Các triệu chứng bắt đầu đột ngột với sốt dữ dội và đau đầu. Vài ngày sau khi khởi phát, nhiều bệnh nhân bị nôn mửa, tiêu chảy và đau bụng kéo dài tới một tuần. Các trường hợp nặng có kèm theo chảy máu trong tuần đầu tiên. Một số bệnh nhân nôn ra máu hoặc đi ngoài ra máu.
Bệnh nhâ !important;n cũng bị chảy máu nướu răng, ở mũi và cơ quan sinh dục. Bệnh có thể lan đến hệ thần kinh khiến người bệnh trở nên lú lẫn, dễ cáu gắt và hung dữ. Ngoại hình của bệnh nhân ở giai đoạn này được mô tả là có các đặc điểm được vẽ “Suy mòn, suy kiệt nặng“, đôi mắt sâu hoắm, khuôn mặt vô cảm và cực kỳ thờ ơ. Hầu hết các trường hợp tử vong sau hơn một tuần mắc bệnh, ngoài ra, WHO cho biết thêm rằng các trường hợp tử vong thường đi kèm với sốc và mất máu nghiêm trọng.
Trong đợt bù !important;ng phát ở châu Âu năm 1967, phát ban không ngứa là một đặc điểm được ghi nhận ở hầu hết bệnh nhân từ 2 đến 7 ngày sau khi xuất hiện các triệu chứng. Nhiều bệnh nhân xuất hiện các biểu hiện xuất huyết nghiêm trọng trong khoảng thời gian từ 5 đến 7 ngày, và các trường hợp tử vong thường có một dạng chảy máu nào đó.
3. Cá !important;c phòng ngừa và điều trị bệnh do Virus Marburg lây nhiễm
Theo WHO, hiện chưa có !important; vaccine hoặc phương pháp điều trị bằng thuốc kháng virus nào được phê duyệt để điều trị bệnh do virus Marburg.
Do vậy cần thực hiện tốt cá !important;c biện pháp sau để phòng bệnh:
&ndash !important; Giảm nguy cơ lây truyền từ dơi sang người
&ndash !important; Giảm nguy cơ lây truyền từ người sang người trong cộng đồng: Cách ly người nhiễm bệnh; vệ sinh môi trường xung quanh; nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân nhiễm Virus Marburg, tuyệt đối chấp hành quy định về chăm sóc bệnh nhân truyền nhiễm nguy hiểm.
- Cá !important;c biện pháp ngăn chặn bùng phát bao gồm chôn cất người chết nhanh chóng, an toàn, xác định những người có thể đã tiếp xúc với người bị nhiễm Marburg và theo dõi sức khỏe của họ trong 21 ngày. Thực hiện cách ly người khỏe mạnh với người bệnh để ngăn ngừa lây lan thêm và chăm sóc cho người đã xác nhận bệnh nhân. Đồng thời, cần duy trì vệ sinh môi trường sạch sẽ và đảm bảo được tuân thủ.
- Giảm nguy cơ lâ !important;y truyền qua đường tình dục: Dựa trên phân tích sâu hơn về nghiên cứu đang diễn ra, WHO khuyến nghị nam giới sống sót sau bệnh do vi rút Marburg thực hành tình dục và vệ sinh an toàn hơn trong 12 tháng kể từ khi xuất hiện các triệu chứng hoặc cho đến khi tinh dịch của họ hai lần xét nghiệm âm tính với vi rút Marburg. Nên tránh tiếp xúc với chất dịch cơ thể và nên rửa bằng xà phòng và nước. WHO không khuyến nghị cách ly bệnh nhân nam hoặc nữ đang hồi phục có xét nghiệm máu âm tính với Virus Marburg.
4. Kiểm soá !important;t lây nhiễm trong môi trường y tế
Nhâ !important;n viên y tế phải luôn thực hiện các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn khi chăm sóc bệnh nhân, bất kể chẩn đoán giả định của họ là gì. Các biện pháp này bao gồm vệ sinh tay cơ bản, vệ sinh hô hấp, sử dụng thiết bị bảo hộ cá nhân (để chặn các vết bắn hoặc tiếp xúc khác với vật liệu bị nhiễm bệnh), thực hành tiêm an toàn và thực hành chôn cất an toàn và trang nghiêm.
Nhâ !important;n viên y tế chăm sóc bệnh nhân nghi ngờ hoặc đã xác nhận nhiễm Virus Marburg nên áp dụng các biện pháp kiểm soát lây nhiễm bổ sung để tránh tiếp xúc với máu và dịch cơ thể của bệnh nhân cũng như các bề mặt hoặc vật liệu bị ô nhiễm như quần áo và ga trải giường. Khi tiếp xúc gần (trong vòng 1 mét) với bệnh nhân mắc MVD, nhân viên y tế nên đeo thiết bị bảo vệ mặt (tấm che mặt hoặc khẩu trang y tế và kính bảo hộ), áo choàng dài tay sạch, không vô trùng và găng tay (găng tay vô trùng đối với một số thủ tục).
Nê !important;n đeo găng tay và trang bị bảo hộ cá nhân thích hợp khi chăm sóc người bệnh tại nhà. Nên rửa tay thường xuyên sau khi thăm người thân bị ốm trong bệnh viện, cũng như sau khi chăm sóc người bệnh.