Trẻ bị nhiễm khuẩn khô !important;ng được điều trị kháng sinh kịp thời có thể dẫn tới viêm màng não, suy hô hấp, nhiễm trùng huyết, dễ tử vong.
Bé !important; Vũ Vân Anh, 2,5 tháng tuổi (quận Tân Bình, TP HCM) được bố mẹ đưa đến bệnh viện Đa khoa Tâm Anh cấp cứu trong tình trạng lừ đừ, khó thở, thở lõm ngực, cơ thể có biểu hiện tím tái, nhịp tim 220 lần/phút. Bác sĩ chẩn đoán bé viêm phổi nặng, suy hô hấp, nhiễm trùng huyết. Sau 10 phút cấp cứu, thở oxy, bé phục hồi dần. Vân Anh được sử dụng kháng sinh 5 ngày, xuất viện sau 7 ngày, tiếp tục theo dõi tại nhà.
Chị Nguyệt, mẹ bé !important;, cho biết con mệt, thở khò khè, bú kém 3 ngày trước đi nhập viện. Tại bệnh viện quận, bác sĩ nghi ngờ viêm phổi, theo dõi viêm phế quản - tiểu phế quản, chỉ định nhập viện, điều trị kháng sinh theo phác đồ. Tuy nhiên, thấy con không có dấu hiệu viêm phổi, nghĩ sử dụng kháng sinh sớm sẽ nguy hiểm nên chị Nguyệt từ chối cho bé nhập viện. Chiều cùng ngày, cháu bé đột nhiên khó thở, thở rít, dấu hiệu co lõm ngực nên người nhà đưa đi cấp cứu.
TS.BS Cam Ngọc Phượng, Giá !important;m đốc Trung tâm Sơ sinh BVĐK Tâm Anh TP HCM cho biết, thông thường, trẻ lớn bị viêm phổi có thể có triệu chứng cảnh báo như sốt cao, ho nhiều, thở mệt. Ở nhóm dưới 6 tháng tuổi thì dấu hiệu cảnh báo không điển hình, dễ bỏ qua hoặc nhầm lẫn với bệnh lý khác, bệnh dễ chuyển nặng.
Trường hợp bé !important; Vân Anh nếu không được dùng kháng sinh kịp thời sẽ gây ra những biến chứng nghiêm trọng như nhiễm trùng huyết, tràn mủ màng phổi, viêm màng não, hội chứng suy hô hấp cấp, tràn dịch màng tim, trụy tim...
Trong một số trường hợp, trẻ sơ sinh bị nhiễm khuẩn nhưng khô !important;ng điều trị kháng sinh kịp thời sẽ nhiễm khuẩn huyết, tử vong. Ngoài ra, bé đối diện với biến chứng như: viêm màng não, ảnh hưởng đến phát triển tâm thần vận động về sau.
Khá !important;ng sinh giúp các bệnh do vi khuẩn gây ra như: viêm họng, viêm màng não, viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết... Trước khi chỉ định cho trẻ sơ sinh sử dụng kháng sinh, bác sĩ cần thực hiện các xét nghiệm để chẩn đoán nguyên nhân gây bệnh.
Việc lựa chọn khá !important;ng sinh dựa trên yếu tố như: mức độ bệnh tật, nguồn lây, vi khuẩn từng được phân lập trước đó, tiền sử sử dụng kháng sinh trong vòng 30 ngày, bệnh nền. Bên cạnh đó, các yếu tố ngoại cảnh như mô hình vi khuẩn của địa phương, độc tính của thuốc, tương tác thuốc cũng cần xem xét. Việc tự ý sử dụng thuốc dễ dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh, rối loạn vi khuẩn đường ruột ở hệ tiêu hóa, tiêu chảy, viêm đường ruột...
Năm 2020, Tổ chức Y tế Thế giới cảnh bá !important;o về tình hình kháng kháng sinh tại Việt Nam. Một nghiên cứu tiến hành tại các bệnh viện Việt Nam cho thấy 1/3 số bệnh nhân nội trú đã sử dụng thuốc kháng sinh không hợp lý trong quá trình nhập viện.
Theo bá !important;c sĩ Phượng, tại Bệnh viện Tâm Anh, trẻ (đặc biệt từ 0-3 tháng tuổi) chỉ sử dụng kháng sinh sau khi khám lâm sàng và phối hợp kết quả xét nghiệm phù hợp nhiễm trùng. Trường hợp bệnh nhi sốc, suy hô hấp nặng được cho phép sử dụng kháng sinh ngay. Nếu trẻ chỉ có dấu hiệu nghi ngờ nhiễm trùng, bác sĩ có thể sử dụng kháng sinh cho bé nhưng trẻ sẽ được xét nghiệm trong 24 -36 tiếng sau dùng thuốc. Trường hợp bé khỏe hơn, triệu chứng giảm, có thể cho phép ngưng thuốc thay vì kéo dài phác đồ 5 -7 ngày.
Hiện trung tâ !important;m Sơ sinh Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh nghiên cứu áp dụng phác đồ NICE của Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia Anh trong điều trị viêm phổi cộng đồng giúp giảm sử dụng kháng sinh ở trẻ, theo dõi nhiễm trùng sơ sinh sớm.
Theo số liệu thống kê !important; tại các nước châu Âu, cứ 1.000 trẻ sơ sinh có 40 trẻ bị viêm phổi cộng đồng. Tại Việt Nam, tỷ lệ này có thể cao hơn, cứ 500 trẻ dưới 5 tuổi nhập viện thì có một trẻ bị viêm phổi. Bệnh có thể gây tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi với tỷ lệ 9-15%